Vì sao trẻ em Singapore giỏi toán

Singapore cử đội ngũ giáo viên giỏi đi các nước tiến bộ nghiên cứu rồi về viết sách từ những năm 1980, và nay bổ sung triết lý “dạy ít thôi, học hỏi nhiều vào”. 

Chỉ có 5,5 triệu người, Singapore thường xuyên được xếp hạng đầu trong bảng so sánh các quốc gia có hệ thống giáo dục và khả năng toán học của học sinh trên toàn thế giới.

Trong bảng xếp hạng của 76 quốc gia và lãnh thổ được công bố bởi OECD tháng 5 năm ngoái, Singapore đứng thứ nhất, tiếp theo là Hong Kong, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Bảng xếp hạng dựa trên những thử nghiệm về khả năng của học sinh 15 tuổi về toán học và khoa học. Anh ở vị trí thứ 20 và Mỹ 28.

Một số nước đang tìm cách tiếp thu nền giáo dục của Singapore và cách tiếp cận của riêng mình nhằm giảng dạy toán, khoa học. Điển hình là Anh, chính phủ đã đồng ý để hơn một nửa trường tiểu học ở Anh sử dụng cách giảng dạy của Singapore và đã chi 41 triệu bảng để đào tạo giáo viên, viết sách giáo khoa mới.

redirected here

Một lớp khoa học của học sinh Singapore. Ảnh: FT.

Điều gì ở hệ thống giáo dục Singapore khuyến khích học sinh tự phát triển khả năng của mình? Làm cách nào để các nước có thể tiếp nhận được phương pháp giảng dạy này?

“Phương thức Singapore” được phát triển bởi đội ngũ giáo viên trong những năm 1980, những người được giao nhiệm vụ viết ra các tài liệu giảng dạy chất lượng cao của Bộ Giáo dục. Họ đã nghiên cứu rất nhiều, cũng đi du lịch đến các trường học ở các nước khác, bao gồm Canada và Nhật Bản, để so sánh hiệu quả các phương pháp giảng dạy.

Trọng tâm của phương pháp này là rèn luyện cho trẻ cách tập trung thay vì việc cố dạy cho trẻ làm thế nào để giải quyết vấn đề. Phương pháp học tập trải qua 3 giai đoạn: sự liên tưởng đến các vật thể thực tế, sau đó học qua hình ảnh, và cuối cùng thông qua các biểu tượng.

Lý thuyết đó góp phần nhấn mạnh cách giảng dạy của Singapore trong ngành toán học với giáo cụ trực quan: sử dụng các khối màu để đại diện cho phân số hoặc tỷ lệ.

Một ví dụ ở trường Admiralty, ngôi trường cấp 2 nằm ở phía bắc Singapore. Trong giờ học toán sau bữa ăn trưa, giáo viên mời học sinh rời khỏi chỗ ngồi, điều đó khuyến khích sự tò mò của trẻ. Sau đó, giáo viên mời một em lên giải bài toán – tạo nên bầu không khí đối đầu vui vẻ.

Một học sinh giải bài toán, sau đó dường như chưa chắc về đáp án, liền chạy lên và sửa lại, tuy nhiên, một em khác ở dưới liền nói to rằng “Vẫn sai!”. Vào khoảng thời gian gần cuối của tiết toán, học sinh có một bài kiểm tra nhỏ. Chúng trả lời câu hỏi trên máy tính bảng, và ngay sau đó máy tính sẽ hiển thị số câu trả lời đúng, sai.

Một cậu học sinh với niềm vui cùng với cánh tay cầm chiếc máy tính bảng vẫy vẫy, ra hiệu đã hoàn thành bài kiểm tra khá nhanh. Màn hình chiếc máy hiện lên một biểu đồ tròn bao trùm bởi màu xanh lá cây, hầu như cậu ta đã trả lời đúng toàn bộ số câu hỏi. Ngay sau đó, cả lớp dành cho cậu bé một tràng vỗ tay.

vi-sao-tre-em-singapore-gioi-toan-1

Học sinh ở trường Admiralty. Ảnh: FT

Tuy nhiên, cách thức giảng dạy của quốc đảo này từng chịu nhiều chỉ trích vì việc quá gò bó học sinh. Nhận thấy cần thay đổi, chính phủ Singapore đưa ra những cải cách mới.

Singapore đang chủ trương “dạy ít hơn, học hỏi nhiều hơn”, đề cao việc tư duy độc lập và khuyến khích học sinh theo đuổi niềm đam mê của mình. Số lượng bài tập về nhà được cắt giảm nhiều, thay vào đó học sinh sẽ có nhiều thời gian và có cơ hội lựa chọn đối tượng mình sẽ nghiên cứu.

Những điểm nổi bật trong phương thức học của Singapore 

Tạo tâm thế tích cực đối với toán học. Đừng bao giờ cho rằng “tôi là một người dốt toán”, bởi vì mỗi đứa trẻ có thể học tốt toán học với sự tự tin và hỗ trợ.

Khuyến khích con trẻ chứng minh sự hiểu biết bằng nhiều cách, ví dụ để chúng nói ra những điều mình nghĩ, vẽ bức tranh hoặc xây dựng mô hình vật lý.

Khen ngợi trẻ em vì những nỗ lực, cách nhận biết và sự kiên trì trong giải quyết vấn đề thay vì tìm câu trả lời đúng. Xây dựng sự tự tin bằng cách xem sai lầm là giá trị để học tập.

Biến toán học thành điều gần gũi bằng cách biến cuộc sống hàng ngày trở thành một cuộc trò chuyện toán học. Ví dụ: Có bao nhiêu chiếc xe đang đỗ khi chúng ta đang trên đường đến trường?

Tìm nhiều cách để giải quyết một vấn đề. Đề cao sáng tạo hơn là nỗ lực theo đường cũ.